VIVODO là môn võ tổng hợp các võ học Việt (Võ nghệ, Bình Định, võ Lâm) - cổ truyền để tự vệ. Lấy cương-nhu hoà hợp làm căn bản, về võ lý vận dụng học thuyết âm-dương làm nền tảng. Còn là môn võ để luyện tập cho cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn. Sống lành mạnh với tâm hồn thoái mái vị tha. Để nối tiếp truyền thống võ dân tộc được lưu truyền, để bảo tồn phát triển và truyền dạy cho thế hệ sau không bị thất truyền. Với những tinh hoa đặc thù của võ dân tộc Việt, võ VIVODO đã được phát triển và đã đúc kết gạn lọc một cách hệ thống dựa theo tiêu chuẩn quốc tế để thích hợp với mọi giới và luyện tập dễ dàng.
Về khía cạnh võ thuật thể hiện rõ nét liên hoàn tinh tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong (tinh, khí, thần) với bên ngoài cơ thể (thủ, nhãn và thân). Võ Bình Định là môn võ cổ truyền của dân tộc, được lưu truyền. Võ Bình Định là một võ luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, để tự vệ nhưng đã đóng góp đáng kể trong việc cứu nước của tiền nhân. Qua dòng sử đấu tranh không ngừng để tự tồn và phát triển cũa dân Việt. Với những đặc thù độc đáo và tinh hoa của Võ cổ truyền Bình Định hay Võ Tây Sơn đã có từ ngàn xưa và được cải tiến, phát triển trong suốt tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và đánh đổ bạo quyền.
Võ Bình Định còn là môn Võ tinh thần, luyện tập ý chí thêm kiên cường, tâm hồn cao thượng, thương dân, yêu nước. Về kỹ thuật gồm có quyền thuật và mười tám môn binh khí, nhưng sỡ trường nhất là quyền, côn, kiếm, đao, thương.
Võ thuật đời Tây Sơn là đỉnh cao của võ thuật Bình Định. Nhiều lúc ba chữ võ Bình Định hòa lẫn với võ Tây Sơn. Nói đến võ Bình Định, người ta nghĩ ngay đến võ Tây Sơn. Nói đến võ Tây Sơn thì ta lại biết ngay là nói về võ Bình Định.
Vậy đặc điểm của thời võ Tây Sơn là gì?
Về võ thuật có 4 môn: Côn, Quyền, Kiếm, Cổ.
Về binh khí thì có: Tây Sơn thập thần vũ khí.
Về ngựa thì có: Tây Sơn ngũ thần mã.
Về nhân vật thì có: Tây Sơn Tam Kiệt, Tây Sơn Thất Hổ tướng, Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Tây Sơn Lục Kỳ sĩ, Tây Sơn Tứ danh sư.
* Võ thuật thời Tây Sơn
1. Côn: Về côn thì ở nơi nào cũng có, gồm có hai thứ: Trường côn tục gọi là roi, đoản côn tục gọi là thước.
- Trường côn cũng có hai loại: roi trường (roi đấu) và roi chiến. Roi trường cao hơn đầu người, thường gọi là trường tiên dùng trong chiến trận. Có khi dùng trên ngựa thì sống như ngọn thương. Roi chiến hay gọi là trung bình tiên thường cao hơn đầu người một chút hoặc ngang bằng đầu người. Thường dùng để đánh với đám đông người.
- Đoản côn có tên gọi là thước, dài tới vai người sử dụng là một vũ khí cá nhân gọn gàng trong việc sử dụng và di chuyển. Tại Bình Định có nhiều võ sĩ dùng đoản côn dài hơn kích thước thường hoặc ngắn chỉ bằng 1 sải tay có thể dắt gọn vào lưng. Côn làm bằng gỗ dẻo và chắc như gỗ kiền kiền. Sớ của gỗ phải là sớ dọc. Nếu gỗ có sớ ngang thì sẽ dễ gãy. Đôi khi côn cũng làm bằng thép.
2. Quyền: Đặc điểm của quyền Bình Định là môn quyền hòa hợp giữa ngạnh quyền và miên quyền. Ngạnh quyền là quyền dùng sức mạnh bên ngoài mà cốt ở sự uyển chuyển hòa hợp. Lấy nội công làm chính. Ở Bình Định, các võ sư thường dạy cho các môn đệ cả hai thứ. Người giỏi bên ngạnh quyền, nội công vẫn có. Người chuyên về nội công, ngạnh quyền không đến nỗi tầm thường.
3. Kiếm: Là một loại binh khí bằng kim loại sắc bén. Kiếm gồm hai loại kiếm và đao. Kiếm thì có trường kiếm và song kiếm. Thường trường kiếm thì đàn ông dùng, song kiếm thì đàn bà dùng. Trường kiếm phát huy sức mạnh. Song kiếm thích hợp uyển chuyển, lẹ làng. Đao thì có đại đao, tục gọi là siêu và đoản đao gọi tắt là đao. Bình Định thường sử dụng loại đao ngắn gọi là mã tấu thường để đánh giáp lá cà với địch. Rựa và dao bảy cũng được liệt vào loại đao.
4. Cổ: Là môn võ trống. Đây là một bộ môn võ thuật đặc biệt của thời Tây Sơn. Cho nên còn gọi là trống võ Tây Sơn. Trống võ dùng để luyện tập võ và điều binh khiển trận. Bộ võ trống gồm 16 cái lớn nhỏ được bố trí thành một giàn trống như sau: Đứng ngay chính giữa là võ công. Hai giàn trống nằm ở vị trí trước và sau võ công.
- Phía sau gồm 4 trống lớn, đường kính hơn một thước tây, được treo trên một kệ gỗ gồm từng đôi một. Hai cái gần sát đất, hai cái ngang đầu người. Bốn trống này được võ công đánh bằng gót chân, cùi chỏ và đầu. Tùy theo tầm vóc của võ nhân mà khoảng cách treo trống cũng tăng giảm theo. Tuy nhiên, khi luyện võ đã khá thuần thục thì khoảng cách càng chênh lệch càng phân biệt được tài nghệ cao thấp. Ban đầu thì khoảng cách thuận vị trí của gót chân, cùi chỏ, sau này trống treo ở bất cứ nơi nào võ nhân cũng dùng gót và cùi chỏ chân đánh trúng. Khán giả chỉ nhìn theo gót chân, cùi chỏ người có võ thuật hay chỉ nghe tiếng trống vang lên dòn dã, âm điệu nhịp nhàng và âm sắc như nhau thì biết được sự điêu luyện của võ nhân. Còn khi nghe tiếng trống khi to khi nhỏ, khi kêu khi tắc, thì biết ngay tay học trò võ mới vào nghề.
- Phía trước võ nhân là một giàn trống gồm 12 cái, nơi trung tâm là hai trống lớn bằng một nửa trống phía sau. Hai trống này làm chủ cả giàn trống trầm hùng luôn luôn rền vang liên tục, âm dương hòa lẫn cùng nhau. Khi người sử dụng có nội công thâm hậu thì tiếng trống vang xa gây thành tiếng sấm rền vang. Khi tiếng trống âm dương thay đổi nhịp điệu, người nghe biết rằng thế trận đang đổi thay, khi hùng hồn dòn giã là khí thế tấn công. Khi trầm trầm chậm rãi là lúc đoàn quân di chuyển…
Phía trước hai trống âm dương có 4 trống chiến, mặt trống lớn bằng hai phần ba trống âm dương. 2 cái nằm trước trống âm, 2 cái nằm trước trống dương, được phối khí theo trống mẹ: 2 âm, 2 dương. Âm nằm bên trái, dương nằm bên phải. Tiếng trống âm nghe trong và cao. Tiếng trống dương nghe trầm và đục. Bốn trống của hai loại này dùng để điều khiển binh sĩ, hợp với trống mẹ. Khi tiếng trống âm vang rền thánh thót thì trận thế cần thủ nhiều hơn công. Khí tiếng trống dương rền vang là lúc xung phong kết thúc trận tiền. Phối hợp nhịp nhàng, bốn trống đại phía sau vẫn điểm nhịp khi khoan thai, khi dồn dập. Sau hai trống âm dương một dãy gồm 6 trống nhỏ chỉ bằng nửa hai trống âm dương. Đây là một dãy trống dùng trong việc điều hành, phối hợp. Nó chỉ dùng trong việc luyện tập, hiệu lệnh, từ trái sang phải 6 trống này có độ căng của mặt trống khác nhau nên khi đánh lên có 6 âm độ khác nhau. Khi được đánh lên, âm thanh của 6 trống sẽ tạo nên những nhịp điệu khoan thai, dồn dập … điều khiển ba quân làm theo tiếng trống: hội quân, xuất quân, hành quân …
Trong các cuộc thao diễn, 6 trống này hòa nhịp với 2 trống âm dương làm thành một giàn nhạc võ. Hai trống âm dương đánh nhịp thùng, thùng, 6 trống hòa reo làm nhịp nhàng thế võ. Giàn trống thay thế cho giàn trống kèn của các nước Tây phương. Tuy nhiên có nhiều cái khác biệt là giàn trống chỉ một người đánh, phải là một vị tướng vừa đánh vừa chỉ huy hoặc điều khiển hành quân, tác chiến bằng âm thanh trống.
1/2/140